Kinh tế Nepal

Ruộng bậc thang tại Nepal

GDP danh nghĩa của Nepal vào năm 2016 là hơn 24 tỷ USD.[4] Năm 2010, nông nghiệp chiếm 36,1%, dịch vụ chiếm 48,5%, và công nghiệp chiếm 15,4% GDP của Nepal.[66] Trong khi phần đóng góp của nông nghiệp và công nghiệp đang thu hẹp, thì đóng góp của lĩnh vực dịch vụ lại gia tăng.[66][67]

76% lực lượng lao động nằm trong lĩnh vực nông nghiệp, tiếp đến là dịch vụ với 18% và chế tạo cùng thủ công nghiệp chiếm 6%. Nông sản chủ yếu được trồng tại khu vực Terai giáp với Ấn Độ, gồm có trà, gạo, ngô, lúa mì, mía, các loại củ, sữa, và thịt trâu. Công nghiệp chủ yếu liên quan đến chế biến nông sản, gồm có đay, mía, thuốc lángũ cốc. Nepal thiếu hụt nghiêm trọng lao động có kỹ năng.

Tăng trưởng kinh tế của Nepal tiếp tục bị ảnh hưởng bất lợi do biến động chính trị. Tuy thế, tăng trưởng GDP thực được ước tính là gần 5% năm 2011–2012, cao hơn 3,5% năm 2010–2011.[68] Nguồn gốc tăng trưởng gồm có nông nghiệp, xây dựng, tài chính và các ngành dịch vụ khác. Đóng góp của tiêu thụ cho tăng trưởng được thúc đẩy từ kiều hối. Kiều hối được ước tính tương đương 25–30% GDP (2012). Lạm phát năm 2012 giảm xuống mức thấp là 7% trong ba năm tính đến 2012.[68] Đồng rupee Nepal gắn với rupee Ấn Độ theo tỷ giá hối đoái 1,6 trong nhiều năm. Kể từ khi nới lỏng kiểm soát tỷ giá vào đầu thập niên 1990, thị trường chợ đen về trao đổi ngoại tệ đã biến mất.

Tỷ lệ người nghèo giảm đáng kể từ năm 2003, tỷ lệ người sống dưới ngưỡng nghèo quốc tế (1,25 USD mỗi ngày) giảm một nửa trong vòng bảy năm tính đến 2012.[68] Theo đó, tỷ lệ người nghèo giảm từ 53,1% vào năm 2003/2004 xuống 24,8% vào năm 2010/2011.[68] Theo ngưỡng nghèo 2 USD mỗi ngày, tỷ lệ nghèo giảm đến một phần tư xuống 57,3%.[68] Tuy nhiên, phân phối thu nhập vẫn còn rất bất bình đẳng.[69]

Nepal có cảnh quan ngoạn mục, có văn hoá đa dạng và kỳ lạ nên có tiềm năng đáng kể về du lịch, song tăng trưởng trong lĩnh vực này bị cản trở do bất ổn chính trị và hạ tầng yếu kém. Mặc dù vậy, trong năm 2012 lượng du khách quốc tế đến Nepal đạt 598.204, tăng 10% so với năm trước.[70] Du lịch đóng góp gần 3% cho GDP quốc gia vào năm 2012 và là nguồn thu nước ngoài lớn thứ nhì sau kiều hối.[71]

Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm đạt đến một nửa dân số trong độ tuổi lao động. Do đó, nhiều công dân Nepal chuyển đến các quốc gia khác tìm việc, các điểm đến gồm có Ấn Độ, Qatar, Hoa Kỳ, Thái Lan, Anh, Ả Rập Saudi, Nhật Bản, Brunei, ÚcCanada.[72][73] Nepal nhận được 50 triệu USD mỗi năm từ các binh sĩ Gorkha phục vụ trong quân đội của Ấn Độ và Anh. Năm 2010, tổng giá trị kiều hối là khoảng 3,5 tỷ USD.[73] Trong năm 2009, kiều hối đóng góp tới 22,9% GDP của quốc gia.[73]

Một hiệp định kinh tế lâu năm củng cố quan hệ mật thiết với Ấn Độ. Nepal nhận viện trợ nước ngoài từ Anh,[74][75] Ấn Độ, Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Thụy Sĩcác quốc gia Scandinavia.[76]

Hàng hoá xuất khẩu chính của Nepal là thảm, quần áo, gai dầu, hàng da thuộc, hàng đayngũ cốc. Hàng hoá nhập khẩu chính là vàng, máy móc và thiết bị, sản phẩm dầu mỏ và phân bón. Liên minh châu Âu, Hoa KỳĐức là các đối tác xuất khẩu chính. Liên minh châu Âu là khách hàng lớn nhất của quần áo may sẵn từ Nepal.[77] Các đối tác nhập khẩu quan trọng của Nepal là Ấn Độ, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Trung Quốc.

Cơ sở hạ tầng

Đập thuỷ điện Trung Marshyandi. Nepal có tiềm năng đáng kể về thuỷ điện, có các kế hoạch xuất khẩu điện khắp Nam Á

Phần lớn năng lượng tại Nepal lấy từ gỗ nhiên liệu, phế phẩm nông nghiệp, phân động vật, và nhiên liệu hoá thạch nhập khẩu theo số liệu năm 2012.[78][79] Nepal không phát hiện được dầu mỏ, khí đốt hoặc than đá, song có một số trữ lượng than non. Toàn bộ nhiên liệu hoá thạch thương mại (chủ yếu là dầu và than đá) được nhập khẩu từ Ấn Độ hoặc thị trường quốc tế qua ngả Ấn Độ và Trung Quốc. Nhập khẩu nhiên liệu chiếm hơn 25% thu nhập ngoại hối của Nepal.[79] Chỉ có 1% nhu cầu năng lượng được đáp ứng bằng điện năng. Tính chất quanh năm của các sông tại Nepal và độ dốc lớn của địa hình tạo điều kiện lý tưởng để phát triển một số dự án thuỷ điện lớn nhất thế giới. Ước tính cho biết tiềm năng thuỷ điện khả thi về kinh tế của Nepal là khoảng 83.000 MW từ 66 điểm dự án thuỷ điện.[79][80] Chỉ có khoảng 40% dân chúng Nepal tiếp cận được điện năng (2012).[78] Tỷ lệ điện khí hoá tại các khu vực đô thị là 90%, trong khi tỷ lệ của các khu vực nông thôn chỉ là 5%.[79] Điện có thể bị cắt tới 22 tiếng mỗi ngày vào giai đoạn nhu cầu đạt đỉnh vào mùa đông khi nhu cầu tăng đến gần gấp đôi công suất.[81]

Nepal cô lập với các tuyến vận chuyển lớn của thế giới cả trên bộ, trên không và trên biển. Tại Nepal, hàng không có tình trạng tốt hơn, với 47 sân bay, trong đó 11 sân bay có đường băng được trải nhựa;[82] các chuyến bay thường xuyên và hỗ trợ chuyên chở quy mô lớn. Địa hình đồi núi tại hai phần ba phía bắc của quốc gia khiến việc xây dựng đường và các hạ tầng khác trở nên khó khăn và tốn kém. Năm 2007, Nepal chỉ có hơn 10.142 km đường bộ được trải bề mặt, và 7.140 km đường chưa được trải, và có một tuyến đường sắt dài 59 km tại phía nam.[82] Trên một phần ba dân cư sống trong khu vực cách các tuyến đường bộ quanh năm gần nhất từ hai tiếng trở lên, 15 trong số 75 trụ sở huyện không được liên kết bằng đường bộ. Ngoài ra, khoảng 60% mạng lưới đường bộ và hầu hết đường nông thôn không sử dụng được trong mùa mưa.[83] Cửa ngõ hàng hải duy nhất trên thực tế của hàng hoá từ Kathmandu là Kolkata của Ấn Độ. Tình trạng phát triển kém của mạng lưới đường bộ khiến việc tiếp cận chợ, trường học, và phòng khám là một thách thức.[84]

Thông tin và truyền thông

Theo một báo cáo vào năm 2012,[85] có bảy nhà khai thác và tổng cộng số thuê bao điện thoại là trên 16 triệu, đạt tỷ lệ thâm nhập 61,42%. Dịch vụ điện thoại cố định chiếm 9,37%, điện thoại di động chiếm 64,63%, và các dịch vụ khác (LM, GMPCS) chiếm 3,76% tổng tỷ lệ thâm nhập. Tương tự, số thuê bao dịch vụ data/internet là hơn 4,6 triệu, đạt tỷ lệ thâm nhập 17,53%.[85]

Tuy vậy, có chênh lệch đáng kể giữa mức độ bao phủ cao trong các thành thị và mức độ bao phủ hiện hữu tại các khu vực nông thôn kém phát triển. Trong số 3,914 hội đồng phát triển làng trong nước, 306 không có dịch vụ điện thoại tính đến tháng 12 năm 2009.[86] Nhằm đáp ứng nhu cầu tương lai, ước tính Nepal cần đầu tư khoảng 135 triệu USD mỗi năm vào lĩnh vực viễn thông.[86] Năm 2009, lĩnh vực viễn thông đóng góp 1% cho GDP quốc gia.[87] Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2012, Nepal có 1.828.700 tài khoản Facebook.[88]

Tính đến năm 2007[cập nhật], nhà nước vận hành hai đài truyền hình cũng như các đài phát thanh quốc gia và khu vực. Tồn tại khoảng 30 kênh truyền hình độc lập có đăng ký, song chỉ khoảng một nửa trong đó hoạt động định kỳ. Gần 400 đài phát thanh có giấy phép với khoảng 300 đài hoạt động.[82] Theo điều tra nhân khẩu năm 2011, tỷ lệ hộ gia đình có máy thu thanh là 50,82%, truyền hình là 36,45%, truyền hình cáp là 19,33%, máy vi tính là 7,23%.[3] tính đến năm 2012[cập nhật] có 2.038 báo chí đăng ký tại Nepal, trong đó 514 báo phát hành.[89] Năm 2013, [[Phóng viên không biên giới] xếp hạng Nepal đứng thứ 118 thế giới về tự do báo chí.[90][91]

Giáo dục

Tỷ lệ biết chữ tổng thể (đối với người từ 5 tuổi trở lên 5) tăng từ 54,1% vào năm 2001 lên 65,9% vào năm 2011. Tỷ lệ biết chữ của nam giới là 75,1% còn của nữ giới là 57,4%. Tỷ lệ biết chữ cao nhất được ghi nhận tại huyện Kathmandu (86,3%) và thấp nhất tại huyện Rautahat (41,7%).[3] Tỷ lệ nhập học tiểu học thuần đạt 74% vào năm 2005;[92] tăng lên 90% vào năm 2009.[93]

Tuy nhiên, việc tăng tỷ lệ tiếp cận giáo dục trung học (lớp 9-12) vẫn gặp thách thức lớn. Trên một nửa học sinh tiểu học không học lên trung học, và chỉ một nửa số còn lại tốt nghiệp trung học. Ngoài ra, số trẻ nữ vào trung học thấp hơn số trẻ nam, chênh lệch còn cao hơn nữa sau lớp 10.[94]

Nepal có bảy đại học: Đại học Tribhuvan, Đại học Kathmandu, Đại học Pokhara, Đại học Purbanchal, Đại học Mahendra Sanskrit, Đại học Far-western, và Đại học Nông lâm. Có một số đại học được đề xuất như Đại học Phật giáo Lumbini, Đại học Mid-Western.

Y tế

Một bệnh viện tại khu vực Himalaya hẻo lánh

Dịch vụ y tế tại Nepal được cung cấp từ cả khu vực công và tư. Theo điều tra nhân khẩu năm 2011, trên một phần ba (38,17%) tổng số hộ không có phòng vệ sinh.[3] Nước vòi là nguồn nước uống chính của 47,78% số hộ. Giếng bơm là nguồn nước chính của khoảng 35% số hộ.[3] Theo dữ liệu năm 2010 của WHO, Nepal xếp hạng 139 về dự tính tuổi thọ, ở mức 65,8 năm.[95][96]

Bệnh tật tại Nepal phổ biến hơn các quốc gia Nam Á khác, đặc biệt tại các khu vực nông thôn. Các bệnh hàng đầu là tiêu chảy và các bệnh tiêu hóa, bướu cổ, ký sinh trùng đường ruột, phong và lao.[97] Khoảng 4 trong số 1.000 người thành niên từ 15 đến 49 tuổi có virus HIV, và tỷ lệ nhiễm HIV là 0,5%.[98][99] Suy dinh dưỡng còn ở mức rất cao: Khoảng 47% trẻ em dưới 5 tuổi bị còi cọc, và 36% bị thiếu cân, dù tình hình được cải thiện trong những năm qua song vẫn đáng báo động.[100] Tuy vậy, y tế có nhiều cải thiện, đáng chú ý nhất là trong chăm sóc bà mẹ-trẻ em, vào năm 2012 tỷ lệ tử vong trẻ dưới 5 tuổi là 4,1%.[101][102] Chỉ số phát triển con người (HDI) của Nepal đạt 0,77 về y tế vào năm 2011, xếp 126 trong số 194 quốc gia, tăng so với 0,444 vào năm 1980.[103][104]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nepal http://www.budde.com.au/Research/Nepal-Telecoms-Mo... http://www.starobserver.com.au/soap-box/2009/06/16... http://www.hls-dhs-dss.ch/textes/f/F003422.php http://www.aljazeera.com/news/2018/02/kp-sharma-ol... http://www.bbc.com/news/world-south-asia-12511455 http://edition.cnn.com/2007/WORLD/asiapcf/12/28/ne... http://www.cricketarchive.com/Archive/Grounds/93/g... http://www.economist.com/displaystory.cfm?story_id... http://ekantipur.com/2013/02/23/top-story/new-army... http://kathmandupost.ekantipur.com/news/2017-03-15...